Sự kiện | Lời tiên tri trong Cựu ước | Ứng nghiệm trong Tân Ước |
(1). Sanh ra bởi dòng dõi người nữ (Seed of a woman). | “Ta sẽ làm cho mày cùng người nữ, dòng dõi mày cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mày, còn mày sẽ cắn gót chân người”(Sáng 3:15). | “Khi kỳ hạn đã trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài, bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luập pháp, để cứu chuộc những kẻ ở dưới luập pháp”(Ga 4:4). |
(2). Dòng dõi của Áp-ra-ham. | “Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi (Áp-ra-ham), rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước”(Sáng 12: 3). | “Gia phả của Đức Chúa Giê-su Christ, con cháu Đa-vít và con cháu Áp-ra-ham” (Ma 1:1). |
(3). Từ chi phái Giu-đa. | “Cây phủ-việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa. Kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chân nó. Cho đến chừng Đấng Si-lô hiện tới. Và các dân vâng phục Đấng đó”(Sáng 49:10). | “Người đàn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! Ông là người Giu-đa mà lại xin uống nước cùng tôi”(Giăng 4:9). |
(4). Nối ngôi vua Đa-vít. | “Quyền cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi không thôi, ở trên ngôi Đa-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững, và lập lên trong sự chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời. Thật lòng sốt sắng của Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ làm nên sự ấy !”(Ê-sai 9:6). | “Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài” (Lu 1:32). |
(5). Sanh ra tại Bét-lê-hem. | “Hỡi Bét-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng ngàn Giu-đa là nhỏ lắm, song từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một Đấng cai trị trong Y-sơ-ra-ên; gốc tích Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng”(Mi-chê 5:2). | “Vì Giô-sép là dòng dõi nhà Đa-vít, cho nên cũng từ thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê, lên thành Đa-vít gọi là Bét-lê-hem, xứ Giu-đê, để khai vào sổ tên mình và tên Mari, là người đã hứa gã cho mình, đang có thai. Đang khi hai người ở nơi đó, thì ngày sanh đẻ của Mari đã đến. Người sanh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình, đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không có đủ chỗ ở”(Lu 2:4-7). |
(6). Giáng sanh đúng thời điểm. | “Ngươi khá biết và hiểu rằng từ khi ra lệnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem, cho đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được bảy tuần lễ, và sáu mươi hai tuần lễ; thành đó sẽ được xây lại, có đường phố và hào, trong kỳ khó khăn”(Đa 9:25). | “Lúc ấy, Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu chỉ phải lập sổ dân trong cả thiên hạ. Việc lập sổ dân này là trước hết, và nhằm khi Qui-ri-ni-u làm quan tổng trấn xứ Sy-ri”(Lu 2:1-2). |
(7). Sanh bởi nữ đồng trinh. | “Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: này một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai và đặt tên là Em-ma-nu-ên”(Ê-sai 7:14). | “Đến tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê, tới cùng một người nữ đồng trinh tên là Ma-ri đã hứa gả cho một người nam tên là Giô-sép, về dòng vua Đa-vít. Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. Nầy ngươi sẽ chịu thai và sanh một trai mà đặt tên là Giê-su”(Lu 1:26-31). |
(8). Các trẻ con vô tội bị sát hại. | “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Tại Ra-ma có tiếng than thở khóc lóc đắng cay. Ra-chên khóc con cái mình, mà không chịu an ủi về con cái mình, vì chúng nó không còn nữa”(Giê 31:15). | “Vua Hê-rốt thấy mình đã bị mấy thầy bác sĩ đánh lừa, thì tức giận quá, bèn sai giết hết thảy con trai từ hai tuổi sấp xuống ở thành Bếùt-lê-hem”(Ma 2:16). |
(9). Trở về sau khi lánh nạn ở Ai-Cập (Ê-díp-tô). | “Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu, ta yêu dấu nó; ta gọi Con Trai ta ra khỏi Ê-díp-tô”(Ô-sê 11:1). | “Giô-sép bèn chờ dậy, đem con trẻ và mẹ Ngài đang ban đêm lánh qua nước Ê-díp-tô. Người ở đó cho đến khi vua Hê-rốt băng, hầu cho ứng nghiệm lời Chúa đã dùng đấng tiên-tri mà phán rằng: Ta đã gọi Con ta ra khỏi nước Ê-díp-tô”(Ma 2:14-15). |
(10). Được gọi là Con Đức Chúa Trời. | “Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Ngươi là Con ta; Ngày nay ta đã sanh Ngươi” (Thi 2:7). | “Tức thì có tiếng từ trên trời phán rằng: Này là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Ma 3:17). |
(11). Bị ruồng bỏ. | “Người đã bị người ta khinh dễ và chán bỏ từng trải sự buồn bực, biết sự đau ốm, bị khinh như kẻ mà người ta che mặt chẳng thèm xem; chúng ta cũng chẳng coi người ra gì”(Ê-sai 53:3). | “Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy”(Giăng 1:11). |
(12). Thầy tế lễ thuộc ban Mê-chi-xê-đéc. | “Đức Giê-hô-va đã thề, không hề đổi ý rằng: Ngươi là thầy tế lễ đời đời, tùy theo ban Mê-chi-xê-đéc”(Thi 110:4). | “Cũng một thể ấy, Đấng Christ không tự tôn mình làm thầy tế lễ thượng phẩm; nhưng tại Đấng đã phán cùng Ngài rằng: Ngươi làm thầy tế lễ đời đời, theo ban Mê-chi-xê-đéc”(Hê 5: 5-6). |
(13). Vào thành Giê-ru-sa-lem trong tư thế chiến-thắng. | “Hỡi con gái Si-ôn, hãy mừng rỡ cả thể! Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem hãy trỗi tiếng reo vui! Này, Vua ngươi đến cùng ngươi. Ngài là công bình và ban sự cứu rỗi, nhu mì và cởi lừa, tức là con của lừa cái”(Xa 9:9). | “Hai người dắt lừa con về cho Đức Chúa Giê-su, lấy áo mình trải trên nó; rồi Ngài cởi lên. Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hô-sa-na! Đáng ngợi khen cho Đấng nhân danh Chúa mà đến”(Mác 11:7-9) |
(14). Bị môn đệ phản bội | “Đến đổi người bạn thân tôi, mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi. Cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi”(Thi 41:9) | “Một lũ đông kéo đến, tên Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ, đi trước hết lại gần Đức Chúa Giê-su đặng hôn Ngài. Đức Chúa Giê-su hỏi rằng: Hỡi Giu-đa ngươi lấy cái hôn để phản Con Người sao?”(Lu 22:47-48) |
(15). Bị bán với giá 30 miếng bạc | “Ta nói cùng chúng nó rằng, nếu các ngươi lấy làm tốt, thì hãy cho tiền công ta; bằng không thì đừng cho. Chúng nó bèn cân tiền công cho ta, là ba chục miếng bạc”(Xa 11:12) | “Mà nói rằng: Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp người cho? Họ bèn trả cho nó ba chục miếng bạc”(Ma 26:15) |
(16). Bị chứng dối | “Những chứng gian dấy lên, tra hỏi những việc tôi không biết đến”(Thi 35:11) | “Bấy giờ có mấy người đứng lên làm chứng dối nghịch cùng Ngài”(Mác 14:57) |
(17). Nín lặng đối với các lời vu cáo | “Người bị hiếp đáp, nhưng khi chịu khổ chẳng hề mở miệng”(Ê-sai 53:7) | “Phi-lát lại tra gạn Ngài, mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết sao? Nhưng Đức Chúa Giê-su chẳng trả lời chi nữa, đến nổi Phi-lát lấy làm lạ”(Mác 15:4-5) |
(18). Bị phỉ nhổ | “Tôi đưa lưng cho người ta đánh và đưa má cho người ta tát. Tôi không che mặt khi bị người ta sỉ vã và khạc nhổ vào mặt”(Ê-sai 50:6) | “Họ bèn nhổ trên mặt Ngài, đấm Ngài, lại có kẻ vã Ngài”(Ma 26:67) |
(19). Chết với kẻ ác | “Người sẽ chia của bắt với những kẻ mạnh, vì người đã đổ mạng sống mình cho đến chết, đã bị kể vào hàng kẻ dữ, đã mang lấy tội lỗi nhiều người”(Ê-sai 53:12) | “Cũng có hai đứa ăn cướp bị đóng đinh với Ngài”(Mác 15:27) |
(20). Được chôn với kẻ giàu | “Người ta đã đặt mồ người với những kẻ ác, nhưng khi chết được chôn với kẻ giàu”(Ê-sai 53:9) | “Đến chiều tối, có một người giàu, tên là Giô-sép đến nơi Phi-lát mà xin xác Đức Chúa Giê-su. Giô-sép lấy xác Ngài mà bọc trong tấm vải liệm trắng và đưa để trong một cái huyệt mới mà người đã khiến đục cho mình trong hòn đá”(Ma 27:57-60) |
(21). Hông bị đâm | “Chúng nó sẽ nhìn xem Ta là Đấng chúng nó đã đâm”(Xa 12:10) | “Nhưng có một tên lính lấy giáo đâm ngang sườn Ngài, tức thì máu và nước chảy ra” (Giăng 19:34) |
(22). Uống giấm và mật đắng | “Chúng nó ban mật đắng làm vật thực tôi. Và cho tôi uống giấm trong khi khát”(Thi 69:21) | “Tại đó có một cái bình đựng đầy giấm. Họ lấy một miếng bông đá thấm đầy giấm, buộc vào cây ngưu tất đưa kề miệng Ngài”(Giăng 19:29). “Họ cho Ngài uống rượu trộn với mật đắng”(Ma 27:34) |
(23). Bắt thăm lấy áo ngoài | “Chúng nó chia nhau áo xống tôi, bắt thăm về áo dài tôi”(Thi 22:18) | “Họ đã đóng đinh Ngài trên cây thập tự, rồi thì bắt thăm chia nhau áo xống của Ngài” (Ma 27:35) |
(24). Xương không bị đánh gãy | “Ngài giữ hết thảy xương cốt người. Chẳng một cái nào bị gãy”(Thi 34:20) | “Khi quân lính đến nơi Đức Chúa Giê-su, thấy Ngài đã chết rồi thì không đánh gãy ống chân Ngài”(Giăng 19:33) |
(25). Sống lại | “Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi trong âm phủ, cũng không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát”(Thi 16:10) | “Đừng sợ chi, các ngươi tìm Đức Chúa Giê-su Na-xa-rét, là Đấng đã chịu đóng đinh; Ngài sống lại rồi, chẳng còn ở đây; hãy xem nơi đã táng xác Ngài. Nhưng hãy đi nói cho các môn đồ Ngài và Phi-e-rơ rằng Ngài đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi; các ngươi sẽ thấy Ngài tại đó, như Ngài đã phán cùng các ngươi vậy”(Mác 16: 6-7) |
Trả lời những câu hỏi, thắc mắc liên quan đến mọi vấn đề trong Kinh Thánh, thần học. Nhưng lời Chúa còn lại đời đời. Và lời đó là đạo Tin Lành đã giảng ra cho anh em.(I Phi-e-rơ 1:25)
Thứ Hai
Những lời tiên tri nào trong Cựu Ước được ứng nghiệm với Đức Chúa Giê-su trong Tân Ước?
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét